TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN

" Tiên học lễ, hậu học văn", Lễ chưa thành thì văn khó ngấm. Bao nhiêu tinh hoa thâm uyên ấy nếu cái đức không đủ thì khó lòng lĩnh hội mà thành tài.
“Ta đi học là học cho ta, để gây cái phẩm giá của ta, chứ không phải là để khoe với người. Ta chỉ lo không làm được những việc đáng cho người ta biết, chứ không lo người ta không biết mình”.
“Học cho rộng, hỏi cho kỹ; nghĩ cho cẩn thận, phân biệt cho sáng tỏ, làm cho hết sức. Có điều không học nhưng đã học điều gì thì phải học cho kỳ được. Có điều không hỏi, nhưng khi đã hỏi điều gì thì phải hỏi cho thật hiểu. Có điều không nghĩ nhưng đã nghĩ điều gì thì phải nghĩ cho ra. Có điều không phân biệt nhưng đã phân biệt điều gì thì phải phân biệt cho minh bạch. Có điều không làm nhưng đã làm điều gì thì phải cố hết sức mà làm cho bằng được… Nếu quả theo được đạo ấy thì tuy ngu mà cũng thành sáng, yếu đuối rồi cũng thành ra khoẻ mạnh”.
"Người quân tử sợ ba điều: sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời nói của thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời, nên không sợ, mà còn khinh nhờn bậc đại nhân, giễu cợt lời nói của thánh nhân. Người quân tử ung dung mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không ung dung”.

Thứ Hai, 27 tháng 11, 2017

SUY NGHẪM


1. Cha mẹ chỉ biết cho, chẳng biết đòi. Con cái thích vòi mà không biết trả.
2. Cha mẹ dạy điều hay, kêu lắm lời. Bước chân vào đời ngớ nga ngớ ngẩn.
3. Cha nỡ coi khinh, mẹ dám coi thường. Bước chân ra đường phi trộm thì cướp.
4. Cha mẹ ngồi đấy không hỏi, không han. Bước vào cơ quan cúi chào thủ trưởng.
5. Con trai chào trăm câu không bằng nàng dâu một lời thăm hỏi.
6. Khôn ...đừng cãi người già, chớ có dại mà chửi nhau với trẻ.
7. Mỗi cây mỗi hoa, đừng trách mẹ cha nghèo tiền nghèo của.
8. Cái gì cũng cho con tất cả, coi chừng ra mả mà cười.
9. Đồng tiền trên nghĩa, trên tình, mái ấm gia đình trở thành mái lạnh.
10. Gian nhà, hòn đất, mất cả anh em. Mái ấm bỗng nhiên trở thành mái nóng.
11. Bố mẹ không có của ăn của để, con rể khinh luôn.
12. Ngồi bên bia rượu hàng giờ, dễ hơn đợi chờ nửa giây đèn đỏ.
13. Củi mục khó đun, chồng cùn sống bậy, con cái mất dạy, phí cả một đời.
14. Hay thì ở, dở ra tòa, chia của chia nhà, con vào xóm "bụi".
15. Ngồi cùng thiên hạ, trăm việc khoe hay. Mẹ ốm bảy ngày không lời thăm hỏi.
16. Bài hát Tây Tàu hát hay mọi nhẽ. Lời ru của mẹ chẳng thuộc câu nào.
17. Khấn Phật, cầu Trời, lễ bái khắp nơi, nhưng quên ngày giỗ Tổ.
18. Vào quán thịt cầy, trăm ngàn coi nhẹ, góp giỗ cha mẹ suy tị từng đồng.
19. Giỗ cha coi nhẹ, nuôi mẹ thì không. Cả vợ lẫn chồng đi làm từ thiện.
20. Một miếng ngọt bùi khi còn cha mẹ, một miếng bánh đa hơn mười ba mâm báo hiếu.
21. Cha mẹ còn thơm thảo bát canh rau. Đừng để mai sau xây mồ to, mả đẹp.
22. Bảy mươi còn phải học bảy mốt. Mới nhảy vài bước chớ vội khoe tài.
23. Đi chùa công đức vài trăm không tiếc, tiếc từng hào phụng dưỡng mẹ cha.
SƯU TẦM

Chủ Nhật, 26 tháng 11, 2017

Những việc không nên làm


1. Đối với người thân học trò, nhân viên như sự ban ơn sẽ tạo tâm lý phải trả ơn.
2. Không lo cho cuộc sống cá nhân của họ được no đủ.
3. Bản thân không nguyên tắc, không kỷ luật với chính mình thì người khác coi thường mình.
4. Trước khi đưa ra kỷ luật ai đó cần phải thấu hiểu nguyên nhân tránh trách người không đúng tội, thì sự tôn xưng với mình cũng giảm đi.
5. Nếu học trò ở cùng đừng để học trò có cảm giác họ là người ở.
6. Cách giữ học trò, nhân viên không phải là sự thâu tóm quản lý 24/24.
7. Ai cũng có mơ ước, ngay cả vợ hay con của mình, đừng để họ phải có chung ước mơ của mình. Người học trò cũng vậy hãy tạo cơ hội cho họ xây dựng ước mơ đó.
8. Đằng sau mỗi con người là cả một cuộc sống và sự lo toan. Nếu những điều kiện mình tạo ra cho họ mà mình nghĩ là quá tốt như một sự ban ơn thì đó là hậu họa.
9. Muốn đạo đi xa thì đừng buộc chân những hạt giống mình tạo ra mà hãy là nền đất cho sự bám rễ lâu dài.
10. Sự giận giữ sẽ phá tan mọi công đức, mình sân hận với ai thì họ cũng có thể làm như vậy với mình.

ÍT

Tiền nhiều tiền ít không nói không ai biết.
Kiến thức nhiều kiến thức ít không nói không ai biết.
Ngu nhiều ngu ít không nói không ai biết.
Giận nhiều giận ít không nói không ai biết.
Lo nhiều lo ít không nói không ai biết.
Buồn nhiều buồn ít không nói không ai biết.
...
Tiền nhiều tiền ít vui là được.
Kiến thức nhiều kiến thức ít áp dụng đủ là được.
Ngu nhiều ngu ít không làm bất thiện là được.
Giận nhiều giận ít biết hóa giải là được.
Lo nhiều lo ít biết lo xong việc là được.
Buồn nhiều buồn ít xong hết buồn là được.

Thứ Sáu, 3 tháng 11, 2017

Giai thoại danh y Tiết Tuyết

TIẾT TUYẾT 薛雪 (1661–1750)

    Tiết Tuyết, tự Sinh Bạch, hiệu Nhất Biểu, cũng hiệu là Tảo Diệp Sơn nhân, Ma Kiếm sơn nhân, Hòe Vân sơn nhân, người Giang Tô, Tô Châu; nhà ở khu vườn phía nam Du gia Kiều, lại xưng là ‘Sở Nam ông’, là một danh y đời Thanh. ông hiếu học từ nhỏ, học rộng nhiều tài. Buổi thiếu thời học thi thơ với Diệp Tiếp, một người đồng hương, lại học thư pháp (nghệ thuật viết chữ), hội họa. Ông cũng thích võ công, học môn quyền thuật. 
     Niên hiệu Càn Long năm đầu, quan địa phương tiến cử ông đến kinh đô thi khoa ‘Bác học hồng từ’, nhung thi hai lần không đỗ đạt. Ông bèn đổi hướng học y, ngồi học mười năm ở một căn lầu nhỏ, tinh thông y thuật. Tính ông hơi tự cao, không muốn giao thiệp nhiều; người quyền quí mời ông chẩn mạch, ông cũng ít khi chịu đi, chỉ giao du mật thiết với Viên Mai, một nhà văn học, tự Tử Tài, hiệu Tùng Viên, thương cùng họ Viên ngâm thơ uống rượu. 
     Y thuật của ông cao siêu, chẳng những trị liệu tạp bệnh, mà còn chuyên trị bệnh thời khí (thời dịch). Niên hiệu càn Long, năm thứ 20 (1744), người đầu bếp của Viên Mai tên Vương Tiểu Dư, bị bệnh dịch nguy kịch. Ông đến thăm bạn vào chiều tối, đốt nến xem bệnh, cười nói: ',Tôi thích chống đối với con ma bệnh dịch, có thể thắng nó được’, bèn lấy ra một hoàn thuốc, bảo phu khiêng kiệu đâm thạch xương bồ lấy nước hòa thuốc, dùng đũa cạy miệng đổ cho uống, dặn rằng đến gà gáy con bệnh sẽ lên tiếng. Quả đúng như lời ông nói, cho họ Vương uống hai lần thuốc nữa, bệnh khỏi. 
      Lại một lần, người hầu của Viên Mai tên Trương Khánh phát cuồng, ăn vật gì vào thì đau như xé ruột, uống thuốc của nhiều thầy không hiệu nghiệm. Ông đến chơi, quan sát sắc mặt của họ Trương, nói: ‘Đây là bệnh lãnh sa, cạo gió thì hết, không cần chẩn mạch’. Làm theo lời ông, thân người bệnh hiện lên những vết đen lớn bằng bàn tay, bệnh khỏi. Khoảng cuối đời Minh, đầu đời Thanh, bệnh ôn nhiệt lưu hành trong xã hội. Một số y gia đương thời chịu ảnh hưởng tư thông học thuật của Tiết Kỷ và Trương Giới Tân, phần đông dùng thuốc ôn bổ nên trị liệu lầm chứng bệnh. 
     Ông và Diệp Thiên Sĩ đồng ý với nhau về học thuyết ‘ôn bệnh và thấp nhiệt’, khai sáng phép trị mới, đạt được kết quả tết, cho nên hai người đều nổi tiếng ở rừng y (y lâm). Theo lời người ta nói lại, có một năm, hai họ Diệp, Tiết cùng chữa trị cho một con bệnh, ý kiến bất đồng sinh ra tranh cãi, thậm chí đi đến chỗ mạnh ai nấy hành nghề, không cộng tác nữa: Về sau, Diệp Mẫu mắc bệnh, Thiên Sĩ trị liệu không khỏi, lấy làm lo, có người báo cho Tiết Tuyết hay bệnh tình. Ông nói rằng nếu không dùng ‘Bạch Hổ Thang’ thì không thể cứu được. Thiên Sĩ nghe được, tỉnh ngộ ngay, lập tức dùng phương ‘Bạch Hổ Thang’, bà mẹ quả nhiên khỏi bệnh. Thiên Sĩ vô cùng bội phục, chủ động đến tạ lỗi với ông. Từ đó hai người kính mến nhau như cũ. 
      Về phương diện học thuật, ông có nhiều sáng kiến đối với bệnh thấp nhiệt nên soạn quyển ‘Thấp Nhiệt Điều Biện’ để phân tích nguyên nhân gây bệnh thấp nhiệt, luận thuật biểu hiện lâm sàng của bệnh và phép chữa trị, đồng thời viết quyển ‘Y Kinh Nguyên Chỉ’. Ông mất năm 1770, hưởng thọ 89 tuổi.