Kính gửi các anh chị nội dung bài học kỳ tời.
Đề nghị mọi người xem trước đẻ chúng ta cùng thảo luận KCYĐ sử dụng máy đo huyết áp để đo huyết áp hai tay, hai chân từ đó sẽ qui loại bệnh theo âm- dương, biểu-lý, hàn – nhiệt, hư- thực thay cho bắt mạch của Đông y.
I. CÁCH ĐO HUYẾT ÁP
1.Cánh tay:
Là vị trí chuẩn để đo huyết áp, ống nghe đặt trên động mạch cánh tay tại nếp gấp khủy.
2.Đo ở cổ tay:
Tiện lợi, nhưng sự chính xác kém
3.Đùi: người được đo nằm sấp, băng quấn giữa đùi, đặt ống nghe ở hố kheo chân.
4.Cẳng chân: Huyệt Tam Âm Giao.
Hiện tại các máy đo huyết áp bắp tay bằng điện tử có độ chính xác tương đối cao và rất tiện lợi, vì vậy chúng ta nên sử dụng loại máy này để khám bệnh và định bệnh.
II CÁCH SỬ DỤNG MÁY ĐO ÁP HUYẾT THEO TÂY Y
Khi đo huyết áp ở tay có 3 con số đặc trưng: Tâm thu, tâm trương và nhịp tim. Huyết áp tâm thu là áp lực của máu lên thành mạch khi tim co bóp để đẩy máu đi nuôi cơ thể; huyết áp tâm trương là áp lực của máu lên thành mạch khi tim dãn ra và các động mạch ép lại để đưa máu về tim. Số đo của tâm trương cũng nói lên sự đàn hồi, đóng mở của van tim. Nhịp tim biểu thị tần suất co bóp của tim trong 1 phút.
Tây y thường đo huyết áp bên tay trái. Máy cho ra 4 trường hợp :
1. Chức năng của máy là bơm ép khí đè nén trên mạch máu, tạo ra áp lực khí, nếu cơ thể có khí lực vừa đủ, tạo ra cân bằng áp lực, áp lực khí của máy sẽ hạ và cho ra kết qủa, là huyết áp trung bình (tốt) so với tiêu chuẩn thống kê..
Sau khi đo xong, theo Tây y số đầu, gọi là số tâm thu từ 90-140; số thứ hai, gọi là số tâm trương, từ 65-90 là tốt. Số thứ ba, Tây y gọi là mạch nhịp tim đập từ 60-90 là tốt.
2. Nếu cơ thể có nhiều khí lực dư thừa, khiến máy phải bơm ép khí nhiều hơn mới cân bằng được, máy đo sẽ cho ra kết quả là huyết áp cao hơn một người bình thường theo thống kê tiêu chuẩn, gọi là huyết áp cao..
3. Nếu cơ thể thiếu khí, nên khí của máy ép vào mạch, không có lực chống đối, máy bơm lên rất ít rồi hạ xuống, cho ra kết qủa huyết áp thấp so với tiêu chuẩn..
4. Nếu máy đang bơm ép khí vào mạch, tự nhiên máy ngưng, phải bơm lại tiếp, chứng tỏ trong lúc đang bơm ép khí đẩy máu trong ống mạch di chuyển, nhưng trong ống mạch có khối mỡ kết tủa hay huyết khối tắc làm nghẽn mạch khiến khí ép của máy không ép được mạch, khiến nó phải bơm tiếp, điều đó chứng tỏ có cholesterol kết tủa trong ống động mạch hay tĩnh mạch tích lũy từ lâu, chứ không phải lượng cholesterol có trong chất lỏng của máu, nên thử cholesterol trong máu không phát hiện được, mà phải chụp hình, làm scan. Như vậy máy đo huyết áp vô tình phát hiện ra sớm bệnh tắc nghẽn động mạch tim.
Đối với Tây y thường chỉ đo huyết áp ở tay trái để tìm kết qủa trong 3 trường hợp 1,2,và 3, chứ không để ý đến trường hợp 4. Vì trường hợp 4, huyết áp thay đổi, mặc dù máy bơm nhồi 2,3,4 lần sẽ cho ra kết qủa là huyết áp cao, nhưng khi khối cholesterol kết tủa trôi đi chỗ khác do mỗi lần máy ép khí, nếu khí đi thông suốt bình thường, máy không bị nhồi, thì huyết áp lại xuống thấp hay cho ra kết qủa bình thường.
Nhiều bệnh nhân khi sử dụng máy, tưởng rằng máy đo huyết áp bị hư hỏng, đã mua máy mới để đo, cũng gặp lại trường hợp này, mà không hiểu tại sao, hỏi bác sĩ cũng không giải thích được.
III. XÁC NHẬN LÝ THUYẾT KHÍ HUYẾT KINH MẠCH
Lý thuyết về kinh mạch, huyệt đạo của Đông y mọi người tưởng mơ hồ vì từ trước đến nay không ai chứng minh được sự khí hóa của Lục phủ, Ngũ tạng về khí, về huyết, về Tam tiêu có thật hay không. Nhưng ngày nay nhờ có máy đo huyết áp đem áp dụng vào huyệt đạo trên kinh mạch mới phát hiện ra nhiều điều ngạc nhiên lý thú về sự chính xác của lý thuyết kinh mạch đã có cách đây mấy ngàn năm.
Trước hết về quan điểm của Tây y, chúng ta giải thích thế nào khi đo huyết áp ở tay trái như bình thường mà Tây y đã sử dụng để đo huyết áp của tim mạch, nhưng máy lại cho kết qủa một số khác nếu bấm thêm ở một huyệt.
Thí dụ như một người đo huyết áp tim mạch ở tay trái là 145/90mmHg mạch 75, nhưng vẫn để máy nguyên vị trí tay trái, chỉ cần dùng một ngón tay cái ấn đè vào huyệt dưới mỏm xương ức, huyết áp sẽ chỉ ra một kết quả khác như 220/120mmHg mạch 75, hay ấn đè vào huyệt Khí Hải, huyết áp sẽ xuống thấp còn 130/85mmHg mạch 75….
Nếu giải thích theo Tây y là huyết áp của tim mạch, thì huyết áp 220/120mmHg mạch 75 này sẽ gây tai biến mạch máu não làm chết người. Trong khi đó bệnh nhân không có vẻ gì là mệt do tim mạch.
Nhưng giải thích theo Đông y Khí Công về lý thuyết kinh mạch của Đông y, trong cơ thể có rất nhiều khí của Tạng, Phủ. Do đó câu nói: Ý ở đâu khí ở đó, khí ở đâu, huyết ở đó, như vậy khí huyết của Tạng, Phủ đều chạy trên các ống mạch. Khí của tim Đông y gọi là Tâm khí chạy ra mạch, nên Tây y đã phát minh ra máy đo huyết áp tim mạch, nhưng theo Đông y, khí của tất cả Tạng Phủ cũng đều chạy trên các ống mạch ở tay, vì thế Đông y mới có phương pháp bắt mạch ở cổ tay để tìm bệnh của Lục phủ, Ngũ tạng và bệnh của các cơ quan liên quan.
Ngày nay nhờ vào máy đo huyết áp, Đông y Khí Công đem áp dụng vào môn khoa học thực dụng để đo khí huyết thử nghiệm ở Can khí (khí của gan), Vị khí (khí của Bao tử), Tỳ khí (khí của lá lách), Phế khí (khí của phổi), Thận khí (khí của Thận), Bàng quang khí, Tiểu trường khí, Đại trường khí … qua các huyệt đaị diện của Tạng, Phủ trên mạch Nhâm, ở đoạn trung tiêu, như huyệt Cưu Vĩ, Cự Khuyết, Thượng Quản, Trung Quản, Kiến Lý, Hạ Quản, Thủy Phân, Thần Khuyết, Âm Giao, Khí Hải, Quan Nguyên, Trung Cực…sẽ thấy các con số của máy đo huyết áp đều khác nhau. Điều đó chứng minh áp lực khí của Lục phủ, Ngũ tạng có thực và đo được.
Hình 5.3. Sự phụ thuộc của huyết áp vào Tạng Phủ
Khi cơ thể bị bệnh đều do xáo trộn khí làm xáo trộn huyết, do bởi nguyên nhân Tinh-Khí-Thần khiến cho đơn vị nhỏ nhất trong con người là tế bào, khí, huyết cũng bị biến đổi. Ngày xưa thầy Đông y biết được nhờ vào bắt mạch, ngày nay thầy thuốc nếu không muốn bắt mạch, có thể dùng máy đo huyết áp ở hai cánh tay cho ra những con số khác nhau, chúng ta cũng có thể biết được bệnh hư- thực, hàn- nhiệt ở Tạng Phủ nào một cách chính xác, không thể phủ nhận được. Do đó, môn Khí Công Y Đạo dùng máy đo huyết áp để đo khí và huyết của kinh mạch trong Đông y thay vì bắt mạch theo kiểu cổ điển.
Trong qúa trình nghiên cứu về đề tài huyết áp đã được kiểm chứng, KCYĐ đã đặt ra được tiêu chuẩn thế nào là khí thực, khí hư, huyết thực, huyết hư, thế nào là hàn, thế nào là nhiệt.
Máy đo huyết áp theo Tây y chỉ để đo huyết áp của tim mạch, nhưng Đông y Khí Công lại tận dụng nó để thay thế cho phương pháp bắt mạch ở cổ tay theo Y HCT, khám phá ra được rất nhiều bệnh do áp lực khí huyết khác nhau ở mỗi Tạng Phủ về hư -thực, hàn -nhiệt.
Bây giờ chỉ cần kiểm chứng bằng máy đo huyết áp để chứng minh lý thuyết Đông y có đúng hay không, và cách chữa bằng phương pháp điều chỉnh khí huyết qua những huyệt mà kinh mạch Đông y đã tìm ra có giá trị thực trên lâm sàng hay không. Nếu đúng và chữa có kết qủa, thì qủa thật trong con người chúng ta đã có sẵn một kho nguyên liệu thuốc nội dược bằng huyệt để tự chữa cho mình mà không sợ có phản ứng phụ nào xảy ra .
IV. ĐỊNH BỆNH THÔNG QUA MÁY ĐO ÁP HUYẾT
Như trên đã nói theo Tây y huyết áp của một người nằm trong giới hạn lớn hơn hoặc bằng 90/60 mmHg và nhỏ hơn hoặc bằng 140/ 90 mmHg, nhịp tim từ 60- 80 lần/ phút coi là bình thường. Nếu HA nhỏ hơn 90/60 mmHg coi là huyết áp thấp và lớn hơn 140/ 90 mmHg coi là huyết áp cao.
KCYĐ quan niệm khác: Huyết áp coi như khí lực trong cơ thể con người, do vậy huyết áp phải phụ thuộc vào lứa tuổi. Sau đây là bảng tiêu chuẩn áp huyết của người khỏe mạnh theo KCYĐ:
1. Huyết áp ở tuổi thiếu nhi( 5 tuổi-12 tuổi)
95-100/60-65mmHg, mạch nhanh có thể từ 60 đến 140 nhịp.
2.Huyết áp ở tuổi thiếu niên (13 tuổi – 17 tuổi)
100-110/60-65mmHg, mạch tim đập 65
3. Huyết áp ở tuổi thanh niên (18 tuổi-40 tuổi)
110-120/65-70mmHg, mạch tim đập 65-70
4. Huyết áp ở tuổi trung niên (41 tuổi-59 tuổi)
120-130/70-80mmHg, mạch tim đập 70-75
5.Huyết áp ở tuổi lão niên (60 tuổi trở lên)
130-140/80-90mmHg, mạch tim đập 70-80
Cách chữa đúng gốc bệnh cần phải bổ sung khí huyết cho cơ thể đầy đủ, kết qủa điều trị phải được kiểm chứng bằng máy đo áp huyết lọt vào tiêu chuẩn lứa tuổi thì bệnh mới mau khỏi.
Nếu ở những độ tuổi tương ứng, người mà có huyết áp cao hơn tiêu chuẩn gọi là huyết áp cao, chứ không phải theo Tây y trên 140 mmHg mới là huyết áp cao. Thí dụ trẻ 12 tuổi có huyết áp 130 mmHg là huyết áp ở tuổi trung niên, đối với tuổi thiếu nhi là bị bệnh huyết áp cao, chính điều này đã giải thích được tại sao trẻ em sẽ có hậu qủa như chảy máu cam, sốt tê liệt, động kinh, bại não, tăng nhãn áp làm mắt trợn ngược.
Nếu người trong hạn tuổi trung niên hay lão niên, có huyết áp thấp hơn tiêu chuẩn qúa nhiều, chỉ bằng thiếu niên hay thiếu nhi, Tây y cho là tốt nhưng đối với Đông y, khi khám bệnh bằng bắt mạch vẫn cho là thiếu khí huyết. Hậu qủa huyết áp thấp so với tuổi dẫn đến cơ thể suy nhược từ từ, thiếu máu đi nuôi khắp cơ thể sinh ra bệnh đau nhức, thiếu máu nuôi xương cốt sinh thoái hóa khớp, đĩa đệm, thiếu khí huyết lên đầu sinh chóng mặt, hay quên, mắt mờ, tai lãng, kém ăn, mất ngủ là những bệnh thông thường của bệnh huyết áp thấp chứ không riêng gì của tuổi già. Nặng hơn nữa, giống như một cây lớn không đủ nước nuôi cây, cây sẽ khô héo, lá cành không đủ nhựa, lá rụng, cành gẫy, nhựa cây khô tắc khiến cây có nhiều cục u, trong cây rỗng. Con người cũng vậy, cơ thể có những bướu nội tạng do khí huyết tắc nghẽn, nếu tắc nghẽn trên đầu do thiếu khí huyết gọi là bệnh thiên đầu thống (migrain) hay bướu trên dầu, Tây y gọi là bướu não, nghĩa là nửa đầu do khí huyết tắc không lên đầu, đau nhức bên trong đầu, dùng ngón tay gõ bên ngoài bệnh nhân không có cảm giác đau, còn nửa đầu bên kia khí huyết thông không bị đau, khi gõ vào da đầu có cảm giác (khác với trường hợp cao huyết áp bị nhức đầu khi gõ vào da đầu cảm thấy đau). Nếu có bướu trong nội tạng gọi là ung thư như ung thư Bao tử, gan, lá lách, phổi, ruột, thận, xương, hạch…, nếu ung thư toàn thân gọi là ung thư máu.
Theo Tây y, nhiều người ở tuổi trung niên trở lên, có huyết áp ở mức 100-110 Tây y đều cho là thật tốt, qúa lý tưởng, có biết đâu rằng nó chính là thủ phạm gây ra đau nhức mỏi như phong thấp, còn trong cơ thể có những bệnh do hậu qủa của huyết áp thấp kể trên Tây y lại xem là chuyện khác không liên hệ gì với huyết áp.
KCYĐ đã chứng minh được bằng thực nghiệm huyết áp trong cơ thể con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố chứ không phải chỉ có áp lực của tim, trong đó có khí của Lục phủ, Ngũ tạng. Từ cổ xưa Đông y cũng đã biết được khí của Tạng Phủ đều đi qua ống mạch ở cổ tay, do vậy thông qua bắt mạch cổ tay người ta biết được bệnh của các Tạng, Phủ.
Huyết áp ở tay trái phụ thuộc vào khí của tạng Tâm và Bao tử, huyết áp ở tay phải phụ thuộc vào khí của tạng Tâm và Can. Đo huyết áp hai tay trước và sau khi ăn 30 phút còn tìm ra được sự chuyển hóa đúng, sai của chức năng Bao tử và Can.
Khi đo huyết áp ở chân, số tâm thu của huyết áp ở chân bình thường cao cao hơn từ 10 dến 20 mmHg so với ở tay là tốt , còn số đo tâm trương có thể giống như ở tay và biểu hiện cho sự dãn nở của van tĩnh mạch chân. Khác với tay, chân là bộ phận xa tim nhất, nên máu đi xuống chân phải qua hệ thống các van tĩnh mạch một chiều mới trở về tim được. Khi van tĩnh mạch hoạt động không hiệu quả thì máu đen trở về tim khó khăn, dẫn đến tình trạng máu đỏ không thể dễ dàng đưa xuống chân dẫn đến chân bị tê liệt. Để hiểu rõ hơn chúng ta xem xét hình sau:
Hình 5.5. Van tĩnh mạch chân hoạt động tốt
Hình 5.6. Van tĩnh mạch chân hoạt động không hiệu quả
Đông y trước kia, muốn khám bệnh cần phải có thầy giỏi biết bắt mạch để xem Khí-Huyết, Hư-Thực, Hàn-Nhiệt, Biều-Lý thì ngày nay nhờ chức năng của máy đo huyết áp cũng có thể thay thế cho việc khám bệnh bằng bắt mạch lại tiện lợi và có con số chính xác, khi biết cách sử dụng nó theo lý thuyết Đông y.
V. CÁCH SỬ DỤNG MÁY ĐO HUYẾT ÁP THEO PHƯƠNG PHÁP KCYĐ
Đối với KCYĐ, chính nhờ máy đo huyết áp, đã làm sáng tỏ lý thuyết Âm-Dương, Khí-Huyết, Hàn-Nhiệt, Hư-Thực và Ngũ hành, Tạng Phủ bằng những kết qủa cụ thể của máy đo trong mỗi trường hợp .
Qua kinh nghiệm nghiên cứu về huyết áp và cách sử dụng máy đo huyết áp trên lâm sàng trong 30 năm nay, môn KCYĐ mới khám phá ra cái hay của máy và cái hay của lý thuyết Đông y ở những điểm dưới đây.
1.KẾT QUẢ VỀ KHÍ VÀ HUYẾT
Khí Công Y Đạo không những dùng máy đo để biết huyết áp như Tây y, nhưng chỉ theo kết qủa của Tây y mà không biết nguyên nhân nào đã làm huyết áp thay đổi, thì không thể nào có cách chữa đúng vào gốc bệnh được.
Cho nên Khí Công Y Đạo đặt giả thuyết số thứ nhất là số chỉ về khí, số thứ hai chỉ về sự đàn hồi của van tim, số thứ 3 chỉ về huyết.
Số thứ 2 là số lệ thuộc vào cơ co bóp của tim tối đa và tối thiểu để tim hoạt động bình thường, nó điều khiển cả khí và huyết tuần hoàn khắp cơ thể, nên KCYĐ gọi là số chỉ sự đàn hồi của van tim
Theo một định đề khác của Đông y, chỗ nào có máu chạy đến thì chỗ đó nóng ấm, chỗ nào máu không chạy đến đủ thì chỗ đó lạnh.
Khi quan sát và theo dõi những bệnh nhân đang nằm trong khoa cấp cứu tại bệnh viện, khi máu nhiễm trùng hay bệnh nhân đang bị sốt, con số thứ ba lên cao trên 120, khi chữa cho hết sốt, nhiệt độ giảm xuống thì số thứ ba trở lại bình thường 70-80. Như vậy số thứ ba có liên quan đến máu, KCYĐ gọi là số chỉ huyết.
2.KẾT QUẢ VỀ HÀN- NHIỆT
Trường hợp 5 đầu ngón tay tê không có cảm giác là do thần kinh ngoại biên bị co thắt, thì không thuộc trường hợp hàn-nhiệt, mà theo một lý thuyết khác của khí công : Khi thần kinh ngoại biên bị co thắt sẽ làm tăng huyết áp , hay ngược lại khi huyết áp cao thì thần kinh ngoại biên bị co thắt. Như vậy, có người bị tê tay nào là bên tay ấy bị huyết áp cao.
3.KẾT QUẢ KHÍ HUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN TẠNG PHỦ
Đông y khi khám bệnh, đều phải bắt mạch xem khí huyết của Tạng Phủ, như vậy, không phải khí huyết nào cũng là khí huyết của tim mạch khi dùng máy đo huyết áp. Cũng nhờ ý tưởng này, Khí Công Y Đạo áp dụng máy đo huyết áp , gọi là máy đo khí huyết, đo khí huyết ở 2 tay, thấy có sự khác biệt. Để giải thích tại sao có sự khác biệt ấy, chúng ta mới thấy được lý thuyết của Đông y đã tìm ra nguyên nhân của bệnh huyết áp cao do Tạng Phủ nào.
1.Huyết áp liên quan đến Bao tử do ăn uống
Theo Khí Công Y Đạo, nếu đo huyết áp bên tay trái, thì kết qủa số đo huyết áp lệ thuộc vào Bao tử, mặc dù có uống thuốc điều trị kiểm soát huyết áp mỗi ngày, nhưng ít ai để ý đến đo huyết áp trước khi ăn và sau khi ăn, hai kết qủa huyết áp khác nhau rất nhiều. Có 3 trường hợp xảy ra như sau, được chia thành ba nguyên nhân do Tinh hoặc do Khí hay do cả Tinh và Khí làm ra bệnh:
a)Trước khi ăn, lúc đói huyết áp cao, sau khi ăn 30 phút đo lại thấy huyết áp thấp :
Không phải do uống thuốc điều trị bệnh huyết áp, mà do 2 nguyên nhân, nguyên nhân thứ nhất do chức năng Bao tử hư không chuyển hóa, Đông y gọi là không có Vị khí, là khí lực dùng để co bóp Bao tử xay nghiền thức ăn thành dưỡng trấp, đó là nguyên nhân do Khí, nguyên nhân thứ hai Vị khí tốt xay nghiền thức ăn thành dưỡng trấp, nhưng trong thức ăn đó có loại thức ăn chứa một dược chất tương đương với thuốc làm hạ huyết áp, như chanh, cà chua, cần tây, canh chua, đu đủ, đậu trắng, tỏi, hoặc như món ăn làm hạ huyết áp bằng súp đậu thận trắng…đó là nguyên nhân do Tinh.
b)Trước khi ăn huyết áp thấp, sau khi ăn 30 phút, đo lại, thấy huyết áp cao :
Mặc dù bệnh nhân đã uống thuốc điều trị huyết áp vào buổi sáng, và đo trước khi ăn, huyết áp thấp, sau khi ăn không để ý đến huyết áp nữa, nhưng có biết đâu rằng, mỗi lần sau khi ăn thấy mệt, buồn ngủ, nhức đầu, chính là do huyết áp tăng cao mà không ngờ, khi đó huyết áp có thể cao lên đến 190/95mmHg mạch 90. Huyết áp tăng do hai nguyên nhân, nguyên nhân thứ nhất, thuộc Tinh, do bệnh nhân có ăn những chất làm tăng huyết áp như nhiều gia vị cay, nóng, ngọt, bia rượu, nhãn, xoài, chôm chôm, sầu riêng, mít, ổi, măng cụt, cam thảo, khô mực, coca, cà phê,... và đã có nhiều người sau khi ăn gục xuống bàn chết, hay đi dự tiệc hội hè tối hôm trước, ngủ một đêm sáng dậy tê liệt hay chết, đó là nguyên nhân do Tinh. Nguyên nhân thứ hai do ăn nhiều bội thực làm tăng vị khí đưa hơi lên tim, như trong bệnh trào ngược thực quản, đó là nguyên nhân do Khí..
c)Trước khi ăn huyết áp thấp, sau khi ăn bữa sáng huyết áp cao, sau khi ăn bữa chiều huyết áp tăng cao nữa.
Thông thường người khỏe mạnh không có bệnh huyết áp , trước khi ăn, huyết áp thấp, sau khi ăn huyết áp cao, đến bữa ăn chiều trước khi ăn huyết áp thấp trở lại, sau khi ăn huyết áp cao vẫn nằm trong tiêu chuẩn tốt.
Còn bệnh nhân càng ăn, huyết áp càng cao thêm là bệnh nhân đã có thêm bệnh Bao tử, như Vị khí thực, Vị khí nhiệt, nếu cơ thể phải uống thêm nhiều loại thuốc chữa bệnh theo cách chữa vào chứng là chữa ngọn, Bao tử sẽ là thùng rác chứa nhiều vị thuốc trở thành một hỗn hợp tương phản, sẽ không còn công hiệu trong điều trị mà trở thành độc tố, chỉ làm cho Bao tử thực nhiệt thành bệnh loét Bao tử, ung thư Bao tử, Đông y gọi là bệnh phiên vị, lúc đó huyết áp sẽ cao thường xuyên mặc dù có uống thuốc điều trị huyết áp, đó là nguyên nhân vừa do Tinh vừa do Khí..
2.Huyết áp liên quan đến gan do tiêu hóa
Theo Khí Công Y Đạo, nếu đo huyết áp bên tay phải thì kết qủa huyết áp liên quan đến gan.
Người bình thường không bệnh tật, đo huyết áp ở hai tay giống nhau, nằm trong tiêu chuẩn tốt.
Nhưng nếu một người có bệnh cao huyết áp đang dùng thuốc, sẽ có 5 trường hợp xảy ra sau đây :
a)Huyết áp tay trái thấp, tay phải cao
Huyết áp tay trái thấp nhờ thuốc giãn mạch, khi tâm thu do tim bóp đẩy máu ra khỏi tim, nếu ống mạch căng cứng làm huyết áp tăng sẽ vỡ mạch, nên Tây y cho dùng thuốc giãn mạch là tác động vào cơ học làm giảm áp. Nếu đo huyết áp tay phải không chênh lệch nhiều là bệnh nhân mới dùng thuốc điều trị cao huyết áp. Ngược lại nếu đã dùng lâu năm, mạch bên trái càng giãn thì mạch bên phải càng co lại, do phản ứng tự nhiên của cơ thể để bảo vệ tim, có hai trường hợp xảy ra:
- Trường hợp thứ nhất: khi máu về tim do chức năng tâm trương, qủa tim mở lớn kéo hút máu về, cũng theo tính chất cơ học, ống máu phải hẹp lại đẩy máu về tim là thuận lý.
- Trường hợp thứ hai: nếu mạch máu bên phải cũng bị thuốc giãn mạch làm giãn nở, tim không đủ lực hút máu về, phải làm việc tối đa, khiến van tim bị hở, lại trở thành bệnh cao huyết áp mãn tính bên tay phải, do hậu qủa của thuốc, vì thế việc uống thuốc suốt đời cần phải nghiên cứu lại, nguyên nhân gây ra bệnh này Đông y xếp vào loại do Tinh, là do ăn uống hay dùng thuốc men sai.
b)Huyết áp tay phải thấp hơn tay trái
Theo Đông y, khi Can khí hư, Can âm hư, Can huyết hư, Can dương hư làm huyết áp tay phải thấp. Bốn tên gọi theo chức năng khác nhau, Can khí là chức năng co bóp của gan, Can âm là cơ sở của lá gan tốt xấu, to nhỏ, lành lặn hay hư hỏng, Can huyết là lượng máu chứa trong gan, Can dương nôm na là oxy chứa trong gan để bảo quản thành phần máu oxyde sắt tam Fe2O3 trong kho chứa của gan, nếu trong gan thiếu oxy, máu đỏ sẽ biến thành máu bầm đen Fe2O2 hoặc thiếu Oxy nữa nên gan chứa nhiều chất sắt, khiến da mặt xanh đen, nguyên nhân gây ra bệnh này Đông y xếp loại do Khí và do Tinh (thiếu khí và thiếu máu ở gan).
c)Trước khi ăn huyết áp tay phải cao hơn tay trái
Trước khi ăn huyết áp tay phải cao hơn tay trái là chức năng gan đang làm việc tạo men gan, chuẩn bị giúp cho Bao tử khi ăn sẽ hấp thụ và chuyển hóa thức ăn nhanh và hấp thụ chất bổ, đó là huyết áp bình thưòng vẫn nằm trong tiêu chuẩn.
d)Sau khi ăn huyết áp bên tay phải thấp hơn tay trái
Sau khi ăn huyết áp bên tay phải thấp hơn tay trái cũng là bình thường, vì chức năng gan đã chuyển men gan sang giúp Bao tử hoạt động xong.
e)Sau khi ăn huyết áp bên tay phải cao hơn tay trái
Sau khi ăn huyết áp bên tay phải cao hơn tay trái, là chức năng gan hoạt động không bình thường, bệnh nhân không biết đói, và sau khi ăn xong, cảm thấy mệt, vì không có men gan giúp chuyển hóa, khi thức ăn vào Bao tử , gan mới nhận tín hiệu sản xuất men gan để tống thức ăn ra ngoài, không hấp thụ thành chất bổ được, vì can vị bất hòa, không hoạt động đồng bộ.
3.Huyết áp liên quan đến huyệt chức năng
Ngoài cách đo huyết áp ở 2 tay bình thường, nhưng khi dùng tay bấm vào huyệt chức năng như chức năng của Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận, Vị, Tiểu Trường, Đại Trường, hay bất kỳ một đại huyệt hay giao hội huyệt nào, huyết áp đều thay đổi khác nhau, có huyệt làm cho huyết áp xuống rất thấp, có huyệt làm cho huyết áp lên rất cao, có huyệt tăng hàn, có huyệt tăng nhiệt, có huyệt làm tăng nhịp tim đập, có huyệt làm hạ nhịp tim v.v. mặc dù máy đo huyết áp vẫn để ở tay. Điều đó chứng tỏ dùng huyệt cũng có thể chỉnh được huyết áp trở lại bình thường, hay muốn chỉnh riêng từng số, tâm thu, tâm trương, nhịp mạch theo ý muốn, tương đương với hiệu qủa của thuốc, từ đó chúng ta mới biết cổ nhân gọi các huyệt là nội dược, khi bấm vào, nó tạo ra một dẫn truyền qua hệ thần kinh giao cảm tác động lên não, hệ thần kinh trung ương ra lệnh tạo ra một phản xạ đối kháng làm cơ thể tự tiết ra một loại hormon như endorphine để điều chỉnh cân bằng âm dương, Như tác động vào huyệt kích thích tăng âm bằng một lực nào đó, cơ thể sẽ phản xạ điều tiết ra một loại hormon dương với lực tương đương, hay ngược lại. Do đó các thầy thuốc Đông y hay Châm cứu day bấm huyệt biết sử dụng huyệt theo Ngũ hành và theo chức năng đúng sẽ có hiệu qủa tương đương như ngoại dược mà không có phản ứng phụ có hại cho cơ thể.
4.Huyết áp liên quan đến Ngũ hành, Tạng Phủ
Theo Tây y, huyết áp là bệnh của tim mạch, chia làm hai loại :
- Loại bệnh thuộc chức năng, không tổn thương tim mạch.
- Loại do tổn thương tim mạch, như tắc nghẽn do cholesterol, do tim to, tim nhỏ, hẹp van, hở van, vách thành tim dầy, mỏng, do màng mỡ bao tim...
Theo Đông y những nguyên nhân đó là những nguyên nhân trực tiếp, còn những nguyên nhân tại sao lại bị như thế, thì Tây y giải thích do ăn uống như ăn nhiều chất béo, kém vận động, bẩm sinh... để giải thích cho trường hợp bệnh tim mạch có tổn thương thực thể, còn loại không tổn thương thưc thể không giải thích được nguyên nhân, chỉ giải thích được hiện tượng.
Còn Đông y giải thích theo sự khí hóa Ngũ hành Tạng Phủ, dùng quy ước Ngũ hành đặt cho 5 tạng, thuộc âm, chứa nhiều huyết, như Tâm gọi là hỏa, hỏa sinh thổ đặt cho Tỳ, thổ sinh kim đặt cho Phế, kim sinh thủy đặt cho Thận, thủy sinh mộc đặt cho Can. Phủ là dương, chứa nhiều khí, giúp cho Tạng cùng hành hoạt động tốt
Như vậy bệnh của tim do nhiều yếu tố xét theo Ngũ hành sinh khắc, để sắp xếp theo chứng bệnh thuộc hư chứng hay thực chứng.
Hư chứng chỉ do ảnh hưởng Ngũ hành mẹ-con như tim hư gọi là hỏa hư, do mẹ nó là mộc không sinh hỏa, như vậy là tại gan, hỏa hư hay tim hư cũng do con nó là thổ lấy nhiều năng lượng hỏa của nó để sinh thổ, như vậy là do Tỳ ,Vị ăn nhiều chất hàn lạnh làm ngưng đọng sự tuần hoàn khí huyết, nên đã lấy đi của mẹ là tim nhiều hỏa giúp cho nó hấp thụ chuyển hóa thức ăn. Do đó, khi đo huyết áp trước khi ăn và sau khi ăn sẽ khác nhau rất nhiều.
Ngoài ra, khi tim bị bệnh thực chứng do bệnh chứng truyền kinh, thì bất kỳ hành nào cũng có thể truyền bệnh làm hại cho tim được, cũng theo quy luật Ngũ hành sau đây :
a)Nguyên nhân do thủy khắc hỏa, Thận truyền kinh làm hại tim
Như thủy là Thận khắc hỏa là tim, như trong trường hợp suy Thận phải đi lọc Thận, nếu chúng ta có người thân phải đi lọc Thận, muốn biết kết qủa lọc Thận của họ tốt hay xấu, chúng ta đo huyết áp trước khi đi lọc và sau khi lọc, xa hơn nữa, kiểm soát theo dõi huyết áp thường xuyên từ năm trước so sánh với huyết áp hiện tại. Có hai trường hợp xảy ra để biết phương pháp chữa lọc thận là đúng hay sai :
- Phương pháp lọc thận có kết qủa khi huyết áp thấp, sau khi lọc thận một thời gian, huyết áp tăng dần đến bình thường. Hoặc ngược lại, trước khi lọc thận huyết áp qúa cao, sau một thời gian lọc thận, huyết áp xuống thấp trở lại bình thường. Khi huyết áp trở lại bình thường, bệnh nhân cảm thấy khỏe thì nên ngưng lọc thận, trường hợp này là chức năng tâm-thận đã giao hòa (thủy hỏa ký tế).
- Phương pháp lọc thận không có kết qủa khi huyết áp thấp, sau khi lọc một thời gian, hỏa càng ít, thủy càng tăng, chân tay, mặt sưng phù nước, huyết áp càng xuống thấp cho đến khi sắp lìa đời mà không biết nguyên nhân. Khi xuống đến 70/65mmHg mạch 60 thì bệnh nhân co cứng người, tim ngừng đập, tắt thở. Nếu không đo huyết áp kiểm chứng, chúng ta không thể nào biết nguyên nhân chết là thủy dập tắt Tâm hỏa. Do đó, đa số những bệnh nhân đi lọc thận mà không kiểm chứng bằng máy đo huyết áp để biết phương pháp lọc làm cho sức khỏe mình tốt hơn hay xấu hơn, để tự quyết định tiếp tục điều trị hay ngưng điều trị, để tránh đi trên con đường dẫn đến cửa tử thần.
b)Nguyên nhân do kim thừa khắc hỏa, phổi bệnh làm hại tim
Theo Ngũ hành, thay vì hỏa khắc kim, nhưng ngược lại kim thừa khắc hỏa do phổi bị bệnh như hen suyễn làm rối loạn nhịp thở, rối loạn tim mạch khiến huyết áp thay đổi.
c)Nguyên nhân do thổ lấn hỏa, con lấn mẹ, Tỳ Vị thực đưa khí lên hại tim
Theo Ngũ hành, thay vì hỏa sinh thổ, ngược lại thổ dư thừa khí huyết đưa trả về tim, làm thay đổi rối loạn huyết áp.
d)Nguyên nhân do mộc là gan hay thổ là Tỳ Vị, hư hay thự
đều có ảnh hưởng đến tim mạch rối loạn làm huyết áp cao hay thấp.
5. Huyết áp liên quan đến Hàn giả Nhiệt, Nhiệt giả Hàn, giả hư, giả thực
Những bệnh nan y, Tây y và Đông y khó chẩn đoán, nên Đông y có môn học Thương Hàn Luận. Từ lý thuyết còn xa với thực tế lâm sàng, nếu không có máy đo huyết áp cho ra con số chính xác để kiểm chứng.
Thí dụ trong trường hợp chảy máu cam hay thổ huyết, có dấu hiệu lâm sàng như môi khô, người nóng, rêu lưỡi khô vàng nứt, đắp chăn, bệnh nhân sợ uống nước nóng, ăn thức ăn nóng. Đã có nhiều thầy thuốc nhiều năm hành nghề, chẩn đoán là nhiệt chứng, cho thuốc hàn, bệnh nhân càng thổ huyết nhiều hơn. Khi ba bốn thầy hội chẩn, cũng cho là nhiệt chứng, nhưng nghĩ rằng vì cho liều lượng chữa hàn ít qúa, cần phải tăng thêm, nhưng bệnh nhân càng thổ huyết nhiều gấp đôi. Còn những thầy đã có kinh nghiệm, biết bệnh chứng là hàn giả nhiệt, chữa vào gốc bệnh làm tăng Tâm hỏa, cho dùng Quế tâm nhiều, bệnh nhân vừa uống xong, cảm thấy khỏe, không thổ huyết, còn khen thuốc mát qúa, chứ không phải chê thuốc nóng qúa.
Đa số những bệnh nan y khó chữa, nếu thầy không có kinh nghiệm dễ bị chữa sai lầm khiến bệnh hư càng thêm hư, thực càng thêm thực. Muốn tránh được tình trạng này, ngày nay nhờ máy đo huyết áp, chúng ta biết ngay được hàn giả nhiệt hay nhiệt giả hàn, mà không cần tranh cãi lý thuyết, hoặc áp dụng cách chữa sai lầm như trên nữa, bằng cách trước khi chữa, đo huyết áp ở hai tay, lấy cả 3 số, rồi so sánh kết quả sau khi chữa.
a)Số đo huyết áp chỉ Hư Nhiệt
Hư chỉ về Khí là số đầu của máy đo, nhiệt là số thứ ba chỉ mạch tim đập, thí dụ một bệnh nhân có số đo huyết áp rất thấp so với tiêu chuẩn như 85/65mmHg mạch 120, số 85 là hư, số 120 là nhiệt, đo nhiệt độ, đầu trán, chân tay nóng, da khô, lưỡi khô, sắc mặt đỏ bầm tối. Nguyên nhân vừa thiếu khí vừa thiếu huyết, cần phải bổ khí và huyết.
b)Số đo huyết áp chỉ Hư Nhiệt giả Hàn
Nếu bệnh nhân có số đo huyết áp như trên(85/65mmHg mạch 120), nhưng mặt trắng xanh, môi lưỡi khô, tay chân lạnh, đắp chăn, mặc áo ấm, nếu không phải thầy giỏi không thể biết được chứng nghịch với mạch là nhiệt gỉa hàn, nhưng nhờ máy đo huyết áp chỉ nhịp mạch 120 là nhiệt, trong khi bệnh nhân lạnh là giả hàn, chữa sai lầm, bệnh nhân có thể chết ngay sau khi chữa.
Theo Tây y, khi khám tìm ra bệnh ung thư của một bệnh nhân, các bác sĩ không chữa theo cách đối chứng trị liệu lâm sàng như Đông y, là tùy vào tình trạng sức khỏe của bệnh nhân để điều trị, mà chỉ chữa theo bài bản định sẵn cho cách điều trị bệnh ung thư, nên ban đầu trước khi chữa, huyết áp của bệnh nhân 115/75mmHg mạch 120. Theo kinh nghiệm của Khí Công Y Đạo, nếu mạch 120 chân tay nóng là bệnh Hư-Nhiệt do thiếu máu, nếu chân tay lạnh là Hư Nhiệt giả Hàn, vừa thiếu máu vừa thiếu khí, muốn biết khí lực thực trong cơ thể bệnh nhân, lấy mạch 120 trừ cho tiêu chuẩn 75, mạch đã phải đập nhanh hơn 45 lần, lấy số đo khí 115 trừ 45, huyết áp thực sẽ là huyết áp bên lề cửa tử 70/75mmHg mạch 75. Cho nên ngày hôm trước sau khi hóa trị liệu lần thứ nhất huyết áp tụt xuống còn 90, ngày hôm sau huyết áp tụt còn 70, mẹ của bệnh nhân yêu cầu ngưng không được lấy máu thử nghiệm và tiếp tục hóa trị nữa, mà cần phải truyền thêm máu cho huyết áp của con bà đừng xuống thấp, vì khí huyết trong cơ thể mất dần, bệnh nhân đã kiệt sức. Bác sĩ cứ điều trị tiếp tục, khi vừa mới rút máu để thử nghiệm lần thứ ba, bệnh nhân thở hắt hơi ra đi qua bên kia thế giới sau một tích tắc, mà trước đó một tuần ở nhà còn đi đứng ăn uống được. Như vậy Tây y chữa bệnh ung thư không căn cứ vào thể lực kiểm chứng bằng máy đo huyết áp mới xảy ra hậu qủa thương tâm này.
Trường hợp bệnh ung thư nặng khó chữa nhất của chứng Hư-Nhiệt giả Hàn là bệnh ung thư máu cấp tính. Nhưng nếu biết cách khám bằng máy đo huyết áp, thì số đo huyết áp từ lúc còn nhỏ tuổi đến lớn tuổi, huyết áp lúc nào cũng thấp so với tiêu chuẩn, thí dụ ở tuổi thanh niên có số đo huyết áp của thiếu niên, lớn tuổi đến trung niên, cũng có số đo huyết áp của thiếu niên, lên đến 60 tuổi trở lên cũng có số đo huyết áp của tuổi thiếu niên, số đo huyết áp chênh lệch càng cách biệt nhiều, đó là dấu hiệu báo trước của một căn bệnh nan y tiềm ẩn, mà không có vi trùng virus nào làm ra bệnh, thì đó là nguyên nhân gây ra bệnh ung thư.
c)Số đo huyết áp chỉ Hư-Hàn
Thí dụ số đo huyết áp của một người là 90/75mmHg mạch 60, chân tay mát hay hơi lạnh, đối với Tây y, họ là người không có bệnh, sau khi thử máu, khám tổng quát, vẫn cho là tốt. Nhưng thật ra khí huyết không đủ nuôi khắp cơ thể, nếu khí huyết không lên đầu sinh chóng mặt, hay quên, tóc rụng, Tây y tìm không ra nguyên nhân, nếu khí huyết không nuôi cơ quan Tạng Phủ nào thì cơ quan Tạng Phủ đó sẽ bị bệnh. Khi người có huyết áp thấp mà tuổi càng cao, chân tay yếu, Tây y vẫn chưa tìm ra bệnh. Đã có một cô tuổi gần 60, hãnh diện là huyết áp lúc nào cũng khoảng 100, bác sĩ bảo là tốt, cô bảo cô không có bệnh tật gì. Nhưng một hôm cô đi trong nhà, chân yếu, quỵ chân xuống ngã ngồi, đầu không va đụng vào đâu hết, nằm bất tỉnh. Khi người con đi làm về, chở dến nhà thương, cô tỉnh lại, bác sĩ báo cho biết cô bị ung thư não, cần phải chữa trị, một tuần sau cô chết, cũng vì huyết áp tụt xuống dưới 70mmHg.
Những trường hợp huyết áp chỉ hư hàn đa số là mầm mống ung thư loại mãn tính như ung thư máu mãn tính. Qua xét nghiệm máu, kết qủa cũng nằm trong tiêu chuẩn, nhưng để ý theo dõi kết qủa từng kỳ về hồng cầu, lần thứ nhất kết qủa nằm trong tiêu chuẩn bên tối đa, dần dần nằm trong tiêu chuẩn tối thiểu, khi nào lọt ra ngoài dưới tiêu chuẩn, Tây y mới kết luận là tủy bất sản, tế bào tủy không sinh sản ra hồng cầu, lúc đó qúa muộn để chữa trị.
d)Số đo huyết áp chỉ Hư Hàn giả Nhiệt
Thí dụ huyết áp 88/65mmHg mạch 55, số 88 chỉ Hư, mạch 55 chỉ Hàn, nhưng bệnh nhân chân tay nóng đổ mồ hôi dầm dề, người cảm thấy mệt mỏi mất sức, chân tay vô lực, nói không ra hơi, không nhấc tay chân cử động được. Trường hợp này theo Đông y gọi là thoát dương, cho uống Đương Quy Tửu pha với nước gừng nóng vừa bổ khí, vừa bổ huyết, liễm dương, cầm mồ hôi, người mát trở lại.
e)Số đo huyết áp chỉ Hư giả Thực, Thực giả Hư
Có bệnh nhân khi đo huyết áp áp, tay phải cao 220/140mmHg mạch 44, tay trái 160/120mmHg mạch 120.
Theo kinh nghiệm của Khí Công Y Đạo, huyết áp tay phải là Thực và Hàn, tay trái là Thực và Nhiệt. Huyết áp tay phải liên quan đến gan, tay trái kiên quan đến Bao tử, như vậy thuộc chứng mộc thổ bất hòa, hàn nhiệt tương tranh.
6.Huyết áp liên quan đến Biểu-Lý
Có bệnh nhân đau cánh tay phải không giơ lên cao được. Đo huyết áp tay trái nằm trong tiêu chuẩn, tay phải cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn.
Theo quy luật của khí công, khi thần kinh ngoại biên của tay nào bị co thắt thì tay bên đó có huyết áp cao, nên bị đau tai vai bên huyết áp cao.
Trường hợp này là bệnh còn ở biểu, chưa vào lý làm tổn thương gan khi đo huyết áp bên tay phải. Ngược lại một bệnh nhân không đau tay vai, mà chai gan, sưng gan, huyết áp tay phải rất cao, đó là huyết áp liên quan đến lý, có trường hợp Hư Nhiệt huyết áp thấp mạch cao. Hư Hàn huyết áp thấp mạch thấp. Thực Nhiệt huyết áp cao mạch cao. Thực Hàn huyết áp cao mạch thấp.
Bệnh nan y là hư giả thực, thực gỉa hư, hàn giả nhiệt, nhiệt giả hàn.
7.Huyết áp liên quan đến Tinh-Khí-Thần
Nguyên nhân gây bệnh đều do 3 yều tố Tinh-Khí-Thần không hòa hợp gây ra, nên cách tìm bệnh hay chữa bệnh cũng dùng đối chứng lâm sàng dùng Tinh-Khi-Thần để điều chỉnh lại cho khỏi bệnh, đó là phương pháp của Khí Công Y Đạo.
a)Tinh :
Trong những dẫn chứng kể trên, huyết áp đang thấp, chỉ thay đổi món ăn thức uống hay thuốc men, Đông y gọi chung là Tinh, sẽ làm thay đổi huyết áp tốt thành xấu, xấu thành tốt. Như huyết áp thấp dùng Đương Quy Tửu (Tankwe-Gin), huyết áp cao dùng Súp Đạu Thận Trắng với 100g tép tỏi và phải biết ăn uống kiêng cữ cho phù hợp với bệnh để tránh tình trạng hư làm thêm hư, thực làm thêm thực.Muốn biết kết qủa ăn món ăn nào lợi, món nào hại, ngay cả những phương pháp dinh dưỡng đặc biệt của Oshawa hay của Tây phương, đều phải kiểm chứng bằng máy đo huyết áp, máy đo huyết áp chính là bác sĩ gia đình giỏi nhất. Ngay cả bệnh tiểu đường, nhiều người cho rằng ăn món này đường xuống, ăn món này đường lên. Không nên tin ai cả, phải thử nghiệm bằng máy móc là máy đo huyết áp và máy đo đường, đừng thắc mắc, tranh cãi đúng sai, tin hay không tin, chỉ có thực nghiệm lâm sàng, kiểm soát bằng máy móc trên cơ thể mình mới là kết qủa chính xác, các món ăn tùy hợp hay không hợp với mỗi người khác nhau.
b)Khí :
Có hai loại khí tự động và chủ động, khí có thăng, giáng, có thủy hỏa, có liễm xuất, có âm có dương, có hàn nhiệt...
Cần chủ động tập luyện theo các bài tập thể dục động công, chọn những bài thích hợp để chữa bệnh, và đo kiểm chứng huyết áp trước và sau khi tập.
Có nhiếu loại khí công, mỗi môn phái có cái hay riêng, nhưng dùng để chữa bệnh, cần phải đo huyết áp trước và sau khi tập xem huyết áp từ xấu thành tốt thì nên tập. Còn các môn phái muốn áp dụng để trở thành môn chữa bệnh, phân ra từng bài, kiểm chứng bài nào có giá trị làm tăng huyết áp để dạy cho người huyết áp thấp, bài nào có giá trị làm hạ huyết áp để dạy cho những người huyết áp cao, bài nào có thể chữa làm hạ đường, cholesterol, chữa bệnh mất ngủ do hư chứng hay thực chứng....mới trở thành hữu dụng một cách thực tiễn giúp cho những người bệnh.
c)Thần :
Khí Công Y Đạo có phương pháp thở thiền làm tăng huyết áp, hạ huyết áp, thiếu khí, dư khí, chữa hàn, nhiệt, chữa đường, mỡ máu, mất ngủ hư chứng, thực chứng, chữa vào Lục phủ, Ngũ tạng tùy theo hư chứng hay thực chứng, phát triển trí não và phát triển tâm linh...
Tóm lại, phương pháp chữa bệnh của Khí Công Y Đạo hướng dẫn mọi người cách sử dụng máy đo huyết áp để khám bệnh, lý luận định bệnh theo Ngũ hành, Tạng Phủ, tự chữa bệnh bằng cách điều chỉnh Tinh (ăn uống, thuốc men), điều chỉnh Khí do tập thể dục khí công, điều chỉnh Thần do thập thở thiền, giúp cho cơ thể tự động điều chỉnh Âm-Dương, Khí-Huyết được quân bình, cơ thể khỏe mạnh, tăng cường thể lực phòng chống bệnh tật, sống vui khỏe yêu đời, không lo đến bệnh tật đúng theo phương châm : ăn được ngủ được là tiên.
Khí Công Y Đạo xuất hiện đầu tiên trên thế giới là một phương pháp mới liên kết giữa Đông, Tây y. Hy vọng mọi ngưới áp dụng như là một phương pháp tự chữa bệnh của ngành Y Học Bổ Sung mà hiện nay mọi người đang tìm kiếm.
Soạn bài và giảng
Trần Hữu
ĐC Mail tranhuu76@gmail.com
ĐT 0906685778
Nội dụng học buổi tiếp theo.
VI. Đo huyết áp khi tác động huyệt để định bệnh các tạng phủ
VII. Huyết áp luận giải định bệnh tam tiêu.
Xin cam on, bai viet that la bo ich. Toi se ap dung theo.
Trả lờiXóaThien Vu